Hãy là người đầu tiên thích bài này
Công nghiệp Việt Nam – 80 năm nhìn lại và hướng tương lai

Từ nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh, công nghiệp Việt Nam sau 80 năm đã trỗi dậy thành trụ cột tăng trưởng, đưa hàng hóa vươn khắp thế giới.

Sản xuất sản phẩm may mặc xuất khẩu tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam. Ảnh: Kiều Giang

Vươn lên thành trụ cột tăng trưởng

Năm 1945, kinh tế Việt Nam vô cùng nghèo nàn, lạc hậu. Công nghiệp hầu như không có gì ngoài vài nhà máy điện, nước ở các đô thị lớn phục vụ nhu cầu của thực dân Pháp, một số mỏ khai thác khoáng sản đưa về Pháp.

Năm 1946, đất nước bước vào cuộc kháng chiến 9 năm. Công nghiệp chủ yếu phục vụ kháng chiến gồm một số xưởng sản xuất vũ khí thô sơ, thuốc men cơ bản và đời sống nhân dân.

Từ năm 1955 đến 1975, khi đất nước bị chia cắt 2 miền, ngành công nghiệp ở miền Bắc được phát triển theo mô hình xã hội chủ nghĩa, ưu tiên công nghiệp nặng. Với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã xây dựng các cơ sở công nghiệp nặng như gang thép Thái Nguyên, cơ khí Hà Nội, điện Uông Bí, hóa chất Việt Trì... và cơ sở công nghiệp nhẹ như dệt 8/3, cao su, xà phòng, thuốc lá, bóng đèn, phích nước Rạng Đông... Chiến tranh phá hoại của Mỹ giai đoạn 1964-1972 phá hủy gần như toàn bộ cơ sở công nghiệp.

Trong khi đó giai đoạn này tại miền Nam, công nghiệp chủ yếu là ngành chế biến nông sản và hàng tiêu dùng phục vụ bộ máy chiến tranh của chính quyền Sài Gòn, quân đội Mỹ và đồng minh.

Sau thống nhất đất nước, các năm 1976-1982, miền Nam thực hiện cải tạo công - thương nghiệp nhằm chuyển khu vực tư nhân thành sở hữu Nhà nước và tập thể.

Tiếp đó, cả nước khôi phục nền kinh tế bị tàn phá trong 2 cuộc chiến tranh. Công nghiệp nặng là lĩnh vực được ưu tiên phát triển (cơ khí, luyện kim, năng lượng, hóa chất). Các cơ sở công nghiệp lớn được xây dựng với sự trợ giúp của nước ngoài như thủy điện Hòa Bình, xi măng Bỉm Sơn, nhiệt điện Phả Lại, giấy Bãi Bằng…

Phải đối mặt với cấm vận và bao vây kinh tế 17 năm (1979-1995), thêm vào đó, cơ chế kế hoạch hóa khiến kinh tế khủng hoảng vào giữa thập niên 1980. Sản xuất công nghiệp trì trệ, sản phẩm nghèo nàn, cung không đủ cầu.

Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) khởi xướng đổi mới và hội nhập, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp bắt đầu tăng trưởng mạnh, đặc biệt là công nghiệp nhẹ và chế biến hàng xuất khẩu.

Thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bắt đầu tăng mạnh từ đầu thập niên 1990, giúp hình thành các cơ sở sản xuất công nghiệp có vốn FDI và các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Việt Nam gia nhập ASEAN (1995) và Khu vực thị trường tự do ASEAN là AFTA (1996), APEC (1998) giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp như dệt may, da giày, chế biến thủy sản, vật liệu xây dựng.

Từ năm 2000 đến nay ngành công nghiệp phát triển mạnh dưới tác động của nhiều yếu tố. Đó là quá trình hội nhập mạnh mẽ khi Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (2001), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (2006), tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với 60 nền kinh tế chiếm gần 90% GDP thế giới. Hiện Việt Nam có quan hệ thương mại với 230/240 nền kinh tế trên thế giới, được xếp trong nhóm 20 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.

Bên cạnh đó là sự bùng nổ của dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam, đặc biệt trong các ngành công nghiệp công nghệ cao.

Các yếu tố đó đã thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp như khai thác và chế biến dầu khí; điện tử, máy tính, điện thoại di động; luyện kim, sắt thép; xi măng, vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy...

80 năm qua, dù trải qua nhiều biến cố lớn như chiến tranh, đất nước chia cắt, bị bao vây cấm vận, khủng hoảng thời kỳ bao cấp, từ một nền kinh tế thuộc địa nghèo nàn, chúng ta đã xây dựng được ngành công nghiệp bề thế.

Nước ta trở thành một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và thế giới, và quốc gia có chỉ số năng lực cạnh tranh công nghiệp cao (xếp thứ 43/150 quốc gia được xếp hạng năm 2017). Sản phẩm công nghiệp chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu. Công nghiệp trở thành động lực chính của tăng trưởng kinh tế.

Song có thể thẳng thắn nhìn nhận, công nghiệp còn phụ thuộc vào FDI, khu vực chiếm 60% giá trị sản lượng công nghiệp, trong đó chiếm hầu như toàn bộ lĩnh vực điện tử, máy tính, điện thoại di động.

Giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp thấp, do chủ yếu gia công, lắp ráp; chưa làm chủ được các ngành công nghiệp nền tảng. Bên cạnh đó, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ yếu kém, chưa kể công nghiệp vẫn gây ô nhiễm môi trường…

Sản xuất lắp ráp ô tô tại Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải. Ảnh: Cấn Dũng

Hướng đi nào để đạt mục tiêu “trăm năm”

Năm 2021, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra mục tiêu Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển có thu nhập cao năm 2045. Cùng năm 2021, Việt Nam cam kết sẽ đưa phát thải ròng về không năm 2050. Để đạt 2 mục tiêu đó, công nghiệp sẽ phải đóng vai trò động lực trong tăng trưởng kinh tế và cần được phát triển theo các định hướng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, làm chủ các ngành công nghiệp nền tảng...

Chuyển đổi xanh nghĩa là ngành năng lượng phải dần đóng cửa các nhà máy điện than (hiện chiếm 42% tổng sản lượng điện) để chuyển sang năng lượng sạch (gió, mặt trời, hydrogen, điện hạt nhân) trong khi phải bảo đảm sản lượng điện tăng trưởng 12-15%/năm để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.

Công nghiệp nhẹ (dệt may, da giày) phải chuyển sang sử dụng nguyên liệu tái chế để tiếp tục phát triển. Công nghiệp nặng (thép, xi măng, hóa chất) phải thực hiện khử carbon. Nông-lâm-thủy sản chuyển sang sản xuất không phát thải. Tất cả điều đó đòi hỏi nguồn lực khổng lồ.

Ngân hàng Thế giới ước tính trong giai đoạn 2022-2040, Việt Nam cần 700 tỷ USD (trung bình 37 tỷ USD/năm) để chuyển đổi xanh; tạo được cơ chế thích hợp để huy động vốn từ các nguồn ngân sách, tư nhân, nước ngoài.

Cùng đó, ngành công nghiệp phải phát triển dựa trên chuyển đổi số và thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 (AI, blockchain, IOT, người máy, tự động hóa…) để tạo được hiệu quả và năng suất lao động cao. Nhiệm vụ này đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong khi tạo ra thất nghiệp, đặc biệt trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó chuyển đổi số phải gắn với chuyển đổi lao động và tạo ra các lĩnh vực mới để hấp thụ lao động dôi dư.

Phải khẳng định rằngViệt Nam không thể phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở nội lực nếu thiếu các ngành công nghiệp nền tảng. Cần phát triển một số ngành mũi nhọn (bán dẫn, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, luyện kim, cơ khí chế tạo, công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng), tạo nền tảng cho toàn ngành công nghiệp phát triển.

Đặc biệt, công nghiệp không thể phát triển chỉ dựa vào FDI, mà phải dựa trên các doanh nghiệp nội địa có tiềm lực đủ lớn và năng lực cạnh tranh cao, có thể đóng vai trò đầu tàu, dẫn dắt công nghiệp hóa. Các ngành công nghiệp từ gia công, lắp ráp phải được chuyển sang các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi sản xuất như thiết kế, chế tạo linh kiện quan trọng.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ, bảo đảm cung cấp đủ nguyên phụ liệu, linh phụ kiện để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp.

Phía trước là chặng đường trăm năm, nơi ngành công nghiệp phải “lột xác” với chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, làm chủ công nghệ lõi và dựng lên những “đại bàng” nội địa, để đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển, thu nhập cao và hiện thực hóa cam kết Net Zero.

Link gốc

Bình luận

Chưa có bình luận
Hãy là người đầu tiên bình luận cho bài viết này.

FIREANT MEDIA AND DIGITAL SERVICE JOINT STOCK COMPANY

Giấy phép MXH số 251/GP-BTTTT do Bộ TTTT cấp ngày 23/05/2022
Chịu trách nhiệm nội dung: Ngô Minh Long. Hotline: 1900.633.543